Ngựa hoang Mông Cổ vua của các loài ngựa

0
17583

Ngựa hoang Mông Cổ hay còn gọi là ngựa hoang Przewalski là những con ngựa hoang phân bố trên những thảo nguyên ở Mông Cổ.

ngua hoang mong co

Ngựa hoang Mông Cổ

Ngựa Przewalski được đặt tên theo nhà thám hiểm người Nga là Nikolai Mikhailovich Przewalski, người đầu tiên phát hiện ra chúng vào khoảng năm 1880 tại khu vực sa mạc Gobi. Ngựa Przewalski được xếp vào nhóm có nguy cơ tuyệt chủng trong thiên nhiên. Từ năm 1960, loài ngựa quý hiếm này đã được liệt vào nhóm động vật có nguy cơ tuyệt chủng cao của Sách Đỏ.

Đặc điểm

Một con ngựa hoang Mông Cổ trưởng thành nặng khoảng 250-300 kg hoặc từ 250–350 kg, cao tầm 1m30 và dài 2m. Loài ngựa màu nâu này có chiếc cổ ngắn một cách đặc trưng. Đặc biệt, ngựa Przewalski có 66 nhiễm sắc thể thay vì 64 như những loài ngựa khác.[2] Thức ăn chủ yếu của loài ngựa thảo nguyên này là cỏ và một số loài thực vật đặc biệt. Vào mùa đông, khi cây cỏ không phát triển một số khu bảo tồn sẽ cho chúng ăn cỏ khô, đậu và ngô. Ngựa hoang Mông Cổ có thể phát hiện nguy hiểm từ khoảng cách 300 mét và bỏ chạy ngay lập tức.

Lịch sử

Khoảng 20.000 năm trước, loài ngựa này sống tại Châu Âu nhưng biến đổi khí hậu khiến chúng rời môi trường sống sang Châu Á. Loài ngựa thảo nguyên Mông Cổ này từng có số lượng rất đông đúc, thậm chí chúng còn di cư ngược sang vùng Tây Âu để sinh sống. Sau nhiều thế kỷ chống chọi với sự biến đổi khắc nghiệt của khí hậu thì hiện nay ngựa Przewalski còn là nạn nhân của những kẻ săn bắn trộm, khiến số lượng giảm mạnh.

Theo các câu truyện cổ truyền miệng của Trung Quốc, cách đây 2.000 năm, một phạm nhân bị lưu đày đã nhìn thấy loài ngựa hoang này ở khu vực gần thành Đôn Hoàng, nơi giao với Con đường Tơ lụa. Người phạm nhân lập mưu bắt ngựa để dâng cho vua Hán Vũ Đế nhưng không thành. Thậm chí, nhà vua còn viết một bài thơ về loài ngựa lạ này. Châu Âu ghi nhận loài ngựa này vào cuối thể kỷ 19 khi nhà thám hiểm người Nga Nikolai Mikhailovich Przewalski (1839-1888) phát hiện ra chúng tại các núi giáp với sa mạc Gobi.

Khác với các loài ngựa “hoang” khác đã từng được thuần hóa, loài ngựa hoang Mông Cổ chưa bao giờ được thuần hóa, và là loại ngựa hoang thật sự duy nhất còn tồn tại đến nay.

thuc trang ngua mong co

Nguy cơ

Số ngựa Przewalski giảm mạnh sau năm 1945 và chỉ còn lại một nhóm nhỏ trong những năm tiếp theo. Nguyên nhân của tình trạng này là săn bắn, hoạt động quân sự và áp lực sử dụng đất gia tăng. Ngoài ra, với số lượng ít ỏi ngựa Przewalski trong tự nhiên có thể dẫn đến giao phối cận huyết. Vào thế kỷ 20, loài ngựa này ở trên bờ vực tuyệt chủng do nạn săn bắt. Vào năm 1969, một nhà khoa học Mông Cổ đã nhìn thấy một con ngựa đực loại này ở sa mạc Gobi. Đây là lần cuối cùng con người nhìn thấy giống ngựa này trong tự nhiên. Ngựa hoang Przewalski đã bị cảnh báo tuyệt chủng từ 44 năm trước. Đến năm 2008 có khoảng 500 con ngựa thuộc loài này đang sống trong tự nhiên và 1.500 con sống trong các vườn thú và khu bảo tồn.

Ngày nay, ngựa Przewlski sống sót nhờ vào việc gây giống trong điều kiện nuôi nhốt. Hiện có khoảng 1.800 đến 2.000 con ngựa Przewalsi đang sinh sống tại vùng thảo nguyên Mông Cổ và các khu bảo tồn trên toàn thế giới. Hiện có tổng số 1.800 con ngựa Przewalski sống trên toàn thế giới, trong đó có rất nhiều con sống tại vườn thú Praha. Khoảng 1/4 số ngựa này được thả vào tự nhiên hồi cuối năm 2011 nhờ thành công của các biện pháp nhân giống thuần chủng.

Tại Khu Bảo tồn Thiên nhiên Quốc gia Hồ Tây có 27 con ngựa Przewalski đang sinh sống chúng là kết quả của một quá trình dài nỗ lực nhân giống và bảo vệ của Khu bảo tồn kể từ năm 2010. Đặc biệt là việc một con ngựa hoang đầu tiên ra đời nhờ thụ tinh ống nghiệm. Vườn thú Praha, Cộng hòa Séc sẽ đưa thêm các con ngựa hoang Przewalski tới Mông Cổ. Đây là một nỗ lực nhằm đưa loài động vật này trở lại môi trường sống bản địa của chúng. 3 con ngựa cái và một con ngựa giống đã được đưa đến tỉnhKhomiin Tal, Mông Cổ và thêm 4 con ngựa nữa sẽ được đưa tới Mông Cổ.